Sản lượng thủy sản cả nước đạt 2.600 nghìn tấn; “Nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”; Nam Phi thí điểm “thưởng” tín chỉ carbon cho nông dân canh tác bền vững ... là những tin tức chính trong chương trình nông nghiệp Việt Nam ngày 7/5/2022.
GẠO VIỆT TẤP NẬP ĐƠN HÀNG
Thời gian gần đây, giá xuất khẩu gạo Việt Nam liên tục tăng cao. Bên cạnh nhu cầu thế giới tăng do ảnh hưởng của đại dịch, giá gạo xuất khẩu tăng còn do mặt hàng này ngày càng khẳng định được thương hiệu và chất lượng.
Bộ Công Thương cho biết, dù giá gạo Việt Nam cao hơn một số nước xuất khẩu truyền thống, nhưng người tiêu dùng thế giới vẫn chọn ký hợp đồng nhập khẩu gạo Việt. Đáng chú ý, dòng gạo thơm, gạo đặc sản của Việt Nam như ST24, ST25, Jasmine… đã vào được một số thị trường lớn như EU, giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Dự báo, xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm 2022 sang thị trường EU sẽ đạt tối thiểu 60.000 tấn.
XUẤT KHẨU THỨC ĂN CHĂN NUÔI SANG MỸ TĂNG MẠNH
Tính chung cả quý I/2022, xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sang thị trường Mỹ đạt 31,22 triệu USD, tăng mạnh tới 31,9% so với quý I/2021 và chiếm 11,5% trong tổng kim ngạch.
Hiện Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu của Việt Nam, đạt trên 125,18 triệu USD, chiếm 45,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tiếp đó là thị trường Campuchia chiếm tỷ trọng 11,7%, đạt gần 31,88 triệu USD. Mỹ hiện là thị trường lớn thứ 3 của xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu Việt Nam.
SẢN LƯỢNG THỦY SẢN CẢ NƯỚC ĐẠT 2.600 NGHÌN TẤN
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sản lượng thủy sản tháng 4 của cả nước ước đạt 736,4 nghìn tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, thủy sản nuôi trồng đạt 380,4 nghìn tấn, tăng 5,8%; thủy sản khác ước đạt 356 nghìn tấn, giảm 0,6%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản ước đạt 2.600 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng đạt 1.368,4 nghìn tấn, tăng 5,3%; khai thác đạt 1.231,6 nghìn tấn, giảm 1% (sản lượng khai thác biển đạt 1.177,3 nghìn tấn, giảm 1,1%)...
Để ứng phó, hạn chế dịch bệnh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn yêu cầu các tỉnh, thành phố khuyến khích nông dân nuôi trồng thủy sản lưu ý nuôi xen ghép nhiều đối tượng, thay đổi hình thức nuôi, lịch thời vụ nuôi... Đối với khai thác, các địa phương chú trọng phát triển kinh tế biển; đẩy mạnh thực hiện chính sách về phát triển thủy sản; tổ chức thực hiện tốt các giải pháp khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU).
PHÁT TRIỂN CÂY GAI XANH LÀM NGUYÊN LIỆU CHO NGÀNH DỆT MAY
Những năm gần đây, nhu cầu đối với hàng dệt may từ sợi tự nhiên ngày càng cao ở trong nước cũng như trên thế giới, đặc biệt là hàng dệt may có nguồn gốc từ tự nhiên. Trong khi đó, phần lớn nguyên liệu cho ngành dệt may của nước ta vẫn phải nhập khẩu.
Để đáp ứng nguồn nguyên liệu cho ngành này, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thanh Hóa và Tập đoàn An Phước tổ chức tham quan vùng nguyên liệu và nhà máy sợi dệt Viramie tại Thanh Hóa để phát triển sản xuất cây gai xanh làm nguyên liệu chế biến sợi phục vụ ngành dệt may tại một số tỉnh phía Bắc.
Tham quan vùng nguyên liệu và nhà máy sợi dệt Viramie thuộc Tập đoàn An Phước, Ông Trần Thanh Nam - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đánh giá, việc nghiên cứu và sản xuất gai để lấy sợi ở Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn bước đầu. Tập đoàn An Phước là đơn vị đi tiên phong trong xây dựng quy trình sản xuất khép kín từ vùng nguyên liệu đến nhà máy sản xuất sợi gai tại Việt Nam.
Tập đoàn đã phối hợp với Viện Di truyền nông nghiệp chọn tạo thành công giống gai xanh AP1 và được Cục trồng chọt cấp bằng bảo hộ giống cây trồng. Đây là giống cây tiềm năng và có giá trị kinh tế cao, là vật liệu dệt tự nhiên, an toàn với sức khỏe người tiêu dùng. Tuy nhiên, đến nay tổng diện tích mới đạt 1.600 ha chưa đáp ứng được nhu cầu về vùng nguyên liệu do chưa được sự quan tâm, đầu tư đúng mức.
Điển hình là tỉnh Thanh Hóa, dù đã được UBND tỉnh phê duyệt Đề án phát triển vùng nguyên liệu cây gai xanh phục vụ nhà máy sợi dệt đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, sau 4 năm triển khai, diện tích trồng gai xanh mới chỉ đạt trên 10% tổng kế hoạch diện tích được phê duyệt.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Trần Thanh Nam đề nghị các cơ quan liên quan, đánh giá hiện trạng, tiềm năng phát triển sản xuất cây gai xanh làm nguyên liệu chế biến sợi phục vụ ngành dệt may; phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn, những vướng mắc cần tháo gỡ trong việc phát triển sản xuất cây gai xanh theo hướng tập trung, liên kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi tại các địa phương; rà soát, đánh giá một số chính sách liên quan đến phát triển cây gai xanh làm nguyên liệu. Trong đó, tập trung các giải pháp về quy hoạch vùng trồng, sản xuất theo chuỗi, ứng dụng khoa học công nghệ, đào tào và chuyển giao cho người nông dân.
BRAZIL: CHI PHÍ CAO ĐỘI GIÁ NÔNG SẢN
Giá nguyên liệu tăng cao không phải là tình trạng riêng ở nước ta. Tại Brazil, báo cáo mới nhất do Bộ Nông nghiệp Brazil công bố cho thấy, chi phí sản xuất ngày càng tăng và tình trạng lạm phát đã đẩy giá nông sản nước này lên cao, dù sản lượng ngũ cốc của Brazil dự kiến sẽ đạt kỷ lục trong năm nay.
Dù các doanh nghiệp Brazil sở hữu các kênh cung ứng thông suốt và đủ nguồn cung, giá bán buôn nông sản trên thị trường nội địa đã tăng ít nhất 10% kể từ năm 2021. Hơn nữa, việc đồng nội tệ Brazil tiếp tục mất giá khiến người nông dân không mấy mặn mà với thị trường trong nước.
Ngoài ra, xung đột Nga-Ukraine hiện càng làm trầm trọng thêm tình trạng này, đặc biệt là về giá nhiên liệu và phân bón tăng cao, khiến người nông dân buộc phải tăng giá dầu ra để bù cho các chi phí. Dữ liệu từ Bộ Kinh tế Brazil cho thấy, tỷ lệ lạm phát của nước này trong tháng 4 đã có mức tăng hàng tháng cao nhất là 1,73% kể từ năm 1995, trong đó giá năng lượng và thực phẩm là những nguyên nhân dẫn đầu lạm phát.
CÚM GIA CẦM VÀ LẠM PHÁT ĐE DỌA NGÀNH CHĂN NUÔI MỸ
Trong khi đó, nông dân Mỹ đang đứng trước lo ngại “kép” về dịch cúm gia cầm và tình trạng lạm phát đe dọa đến tương lai những trang trại gà khổng lồ của nước này.
Dữ liệu của chính phủ liên bang và tiểu bang Mỹ cho thấy, chỉ tính riêng trong năm nay, dịch cúm gia cầm đã quét sạch hơn 19 triệu con gà trong các trang trại thương mại của Mỹ trong đợt bùng phát tồi tệ nhất kể từ năm 2015 đến nay, khiến người nông dân phải loại bỏ tới 6% tổng đàn gia cầm của cả nước.
Ngoài ra, chi phí năng lượng và ngũ cốc sử dụng làm thức ăn gia cầm tăng cao càng khiến tình hình trở nên khó khăn hơn. Theo đó, giá năng lượng, chi phí thức ăn gia cầm, nhân công đã tăng từ 10-20% so với trước đây. Trong khi đó, sức tiêu thụ trứng gia cầm đang có xu hướng giảm khi người tiêu dùng ngày càng thắt chặt chi tiêu hơn do ảnh hưởng của lạm phát.
SƠN LA PHÁT TRIỂN CÂY DƯỢC LIỆU DƯỚI TÁN RỪNG
Xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh là nội dung quan trọng được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhấn mạnh trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngay tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong lĩnh vực nông nghiệp đã được chỉ ra, từ đó đưa ra định hướng để hoạch định chính sách cho phát triển nông nghiệp thời gian tới. Ở đây, chúng tôi sẽ đề cập đến hướng đi mới của nông nghiệp Việt Nam, đó là nông nghiệp sinh thái. Đây có thể xem là lựa chọn duy nhất giúp chúng ta đạt được đồng thời cả hai mục tiêu thích ứng và giảm nhẹ rủi ro.
Hiện một số mô hình nông nghiệp sinh thái đang được triển khai ở nước ta, điển hình là phát triển cây dược liệu dưới tán rừng nhằm tạo thêm sinh kế cho người dân cũng như bảo vệ đất đai, bảo vệ rừng ở Sơn La.
Cũng như hàng trăm hộ dân khác ở huyện Vân Hồ, gia đình anh Hồng trồng hơn 4ha cây sa nhân dưới tán rừng, bình quân 1ha sa nhân cho thu nhập 5 triệu đồng/năm. Cùng với số tiền dịch vụ môi trường rừng, gia đình anh cũng có thêm nguồn thu nhập đáng kể. Đến nay, toàn huyện Vân Hồ có khoảng trên 1.000ha cây dược liệu trong đó chủ yếu là cây sa nhân.
Anh LÝ VĂN HỒNG, bản Piềng Chà, xã Chiềng Yên, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La: “Xuất phát từ truyền thống ngày xưa cha ông cùng với việc người dân ở bản luôn bảo vệ rừng, việc trồng cây sa nhân không chỉ thu được nguồn kinh tế mà còn bảo vệ rừng, chống xói mòn và khí hậu mát mẻ.”
Sa nhân tím là một trong những cây dược liệu quý có giá trị kinh tế cao, đang được trồng ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Sơn La. Tại huyện biên giới Sốp Cộp, mô hình trồng cây sa nhân tím dưới tán rừng được trồng thí điểm tại xã Nậm Lạnh từ năm 2016. Cây sa nhân dễ trồng, không mất công chăm sóc, không tốn tiền phân, tiền thuốc. Ngoài việc mang lại nguồn thu cho các hộ dân vùng rừng, cây sa nhân còn có vai trò rất hữu ích trong việc giữ đất, chống xói mòn, tạo thành những “đường băng xanh” hạn chế cháy rừng.
Ông TÒNG VĂN VINH, bản Phỏng, xã Nậm Lạnh, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La: “Trồng cây sa nhân, chúng tôi thấy phát triển rất tốt, so với cây trồng khác loại cây này phát triển nhanh, chỉ cần trồng dưới tán rừng thôi, không cần tưới. Thứ hai, cây sa nhân bảo vệ môi trường rất tốt, đặc biệt vào mùa khô hanh có thể hạn chế tình trạng cháy rừng nên cũng bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng rất tốt.”
Khác với Vân Hồ và Sốp Cộp, những dân ở vùng cao huyện Bắc Yên lại lựa chọn thảo quả là loại cây kinh tế gắn với bảo vệ rừng. Nhờ loài cây này, hàng trăm hộ dân đồng bào dân tộc Mông có thêm sinh kế để thoát nghèo và hơn 1.000ha diện tích rừng đầu nguồn có thêm sự bảo vệ, che chở.
Ông GIÀNG A DƠ, bản Pa Cư Sáng A, xã Hang Chú, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La: “Trồng thảo quả dưới tán rừng, thứ nhất để phát triển kinh tế gia đình, thứ hai là chúng tôi đi tuần tra sẽ bảo vệ những cánh rừng, tránh lâm tặc phá hoại rừng”.
Có thể thấy, việc khuyến khích phát triển cây dược liệu dưới tán rừng ở các xã vùng cao, vùng sâu vùng xa đang là giải pháp hữu hiệu, vừa giữ được rừng, vừa phát huy tiềm năng, lợi thế, mang lại thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Sơn La từng bước hướng tới nền nông nghiệp sinh thái trong tương lai.
LÀM NÔNG NGHIỆP TỬ TẾ - CÂU CHUYỆN TỪ LÀNG RAU TRÀ QUẾ
Còn tại miền Trung, nếu ai đã từng đến Quảng Nam, làng rau Trà Quế có lẽ không phải là cái tên mới trên bản đồ du lịch nông nghiệp Việt Nam nhưng cái khó là giữ được thương hiệu làng rau hàng trăm năm tuổi. Người dân nơi đây đã chọn cách làm nông nghiệp tử tế, phương thức canh tác thân thiện với môi trường… để rồi khi ngành du lịch bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, người nông dân vẫn sống tốt nhờ sự tử tế trong nông nghiệp của mình suốt bao năm qua.
Gần 40 năm gắn bó với nghề làm nông, cho đến tận bây giờ, ông Lê Xưa - xã Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam - vẫn sử dụng phương pháp canh tác truyền thống để chăm cho 2 sào rau của mình tươi tốt, ít sâu bệnh. Khi được hỏi về bí quyết giữ cho rau thơm mùi đặc trưng riêng, ít sâu bệnh, không cần phải dùng thuốc bảo vệ thực vật, ông sẵn sàng chia sẻ: “Thứ nhất, phải đảm bảo nguồn đất, quan trọng là bón phân. Thứ hai, muốn giữ cho cây phát triển tốt, ở đây người ta thường xuyên dùng những loại vôi bột xây từ vỏ hến ra hoặc giã các loại ớt ra để phun trừ sâu bọ.”
Không phải phương pháp canh tác cũ nào cũng lạc hậu. Người dân làng rau Trà Quế vẫn giữ thói quen cuốc đất, phơi ải 2-3 ngày để diệt hết sâu bọ trong rễ cây cũ. Trồng xen canh, không lặp lại cùng loại cây trồng trên cùng khu đất để cây trồng dễ phát triển. Trước đây, họ sử dụng rong ở sông như một loại tài nguyên phân bón hữu hiệu nhất, khiến đất màu mỡ, tơi xốp. Mấy năm qua, rong ở sông không còn nhiều, người dân chuyển sang ủ phân bò tự nhiên.
Ông NGUYỄN XUÂN KÝ, xã Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam: "Hồi xưa, ông bà lấy rong xanh về để làm, bây giờ nguồn rong không còn nữa do môi trường nên chúng tôi phải làm phân chuồng. Quá trình làm phân chuồng, chúng tôi phải ủ phân từ 25-30 ngày rồi mới đem ra bón rau để trồng.”
Với phương thức canh tác như vậy, nhiều năm qua, làng rau Trà Quế vẫn được đánh giá là mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái hiệu quả. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu rau màu ở địa phương, bán ở các chợ, siêu thị mà còn là điểm tham quan du lịch sinh thái lý tưởng của du khách.
Ông NGUYỄN THẾ HÙNG, Phó Chủ tịch UBND TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam: “Đây cũng là 1 bài học, một sản phẩm nông nghiệp tốt là có đầy đủ ý nghĩa của nó, nghĩa là về môi trường, về an toàn thực phẩm, không gian cảnh quan, sinh hoạt văn hoá, cố kết cộng đồng của cư dân vùng đó ví dụ như rau Trà Quế, thì mặc nhiên, một cách tự nhiên, du lịch sẽ đến. Khi đó, dân giữ được nghề, sản phẩm du lịch hình thành từ làng rau, từ chất lượng, chiều sâu đến giá trị sản phẩm, sẽ giữ được tính ổn định và bền vững.”
Thu nhập từ du lịch chỉ là tăng thêm, người dân làng rau Trà Quế vẫn bền bỉ với nghề trồng rau của mình. Bởi vậy, qua hơn 2 năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch, người dân làng rau vẫn sống tốt. Rau Trà Quế vẫn là nguồn cung chủ yếu cho khu vực Hội An, Đà Nẵng. Và làng rau vẫn luôn sẵn sàng đón du khách quay trở lại, trải nghiệm nền nông nghiệp sinh thái bền vững của mình.
Hai câu chuyện nói trên đã cho thấy cái nhìn cụ thể hơn về nông nghiệp sinh thái. Nhiều chuyên gia nông nghiệp nhận định, nông nghiệp sinh thái phải được xem là một lựa chọn thay đổi cho nền nông nghiệp thâm canh, hoá học hiện nay. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có chiến lược, hoạt động triển khai nông nghiệp sinh thái nhằm hướng tới nền nông nghiệp an toàn. Dưới đây là chia sẻ từ Tiến sĩ Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn.
CÀ MAU: PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TÔM SẠCH - LÚA HỮU CƠ
Thực tế, một trong những lợi ích mà nông nghiệp sinh thái mang lại là thích nghi và ứng phó trước tác động của biến đổi khí hậu. Tại Cà Mau – địa phương chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, người dân thực hiện nhiều giải pháp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích ứng, an toàn. Trong đó, nổi bật là mô hình tôm sạch - lúa hữu cơ được đánh giá thành công, mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp sinh thái.
Với hơn 1ha trồng lúa kết hợp nuôi tôm, năm nay, gia đình ông Hùng ở ấp Phủ Thời, xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, rất phấn khởi vì cả tôm và lúa đều trúng mùa; đồng thời bán được giá cao, nhờ làm theo quy trình sạch.
Ông ĐẶNG VĂN HÙNG, xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau: "Năm nay trúng mùa nhất trong 3 năm trở lại đây, lúa cũng trúng được hơn 4 tấn/ha; tôm cũng được 3 tấn."
Để tạo ra sản phẩm tôm sạch - lúa hữu cơ, trong quá trình trồng lúa, người dân thả tôm vào ruộng để nuôi kết hợp. Theo đó, tôm ăn những chất phân hủy từ cây lúa và phân thải ra từ tôm giúp cho cây lúa phát triển xanh tốt. Trung bình mỗi hecta lợi nhuận khoảng 100 triệu đồng cả lúa và tôm.
Ông NGUYỄN VĂN LƯỢNG, xã Biển Bạch Đông, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau: "Năm nay, mặc dù dịch bệnh nhưng tôm thả đạt hơn 90% và lúa giống ST24, ST25 cũng được giá cao."
Theo ngành chức năng, toàn tỉnh Cà Mau hiện có hơn 48.000ha áp dụng mô hình lúa- tôm kết hợp, chủ yếu tại huyện Thới Bình. Ưu điểm của mô hình này là chi phí đầu tư thấp, ít rủi ro dịch bệnh và tạo ra sản phẩm sạch, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đây cũng là một trong những mô hình nông nghiệp sinh thái hiệu quả đang được triển khai tại địa phương.
Ông NGUYỄN VĂN PHÚC, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau: "Chúng tôi tiếp tục tuyên truyền, vận động nhân dân áp dụng mô hình này trong thời gian tới, đặc biệt là sử dụng các giống lúa chất lượng cao để nâng cao giá trị góp phần cải thiện đời sống người dân."
Hiện nay, tỉnh Cà Mau đang kêu gọi và liên kết với các công ty thủy sản và lúa gạo trong cả nước để tìm đầu ra ổn định cho người dân. Đặc biệt, phấn đấu đến năm 2025, chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa- tôm phải đạt từ 30 - 50% diện tích lúa - tôm trong toàn tỉnh.
TÂN CƯƠNG (TRUNG QUỐC) VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI
Rõ ràng, những vấn đề liên quan tới biến đổi khí hậu, thiên tai sẽ đe dọa phá vỡ hệ thống lương thực toàn cầu, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực và ảnh hưởng đến sinh kế của nông dân. Điều này cho thấy sự cần thiết phải có thêm đầu tư nhằm giúp ngành nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Không chỉ tại Việt Nam, phong trào nông nghiệp sinh thái được phổ biến ở Châu Âu, Châu Mỹ và được coi là cuộc cách mạng xanh lần thứ hai. Ngay như tại Trung Quốc, thời gian này trong năm, những cánh đồng đã bắt đầu nhộn nhịp tinh thần của vụ sản xuất mới, với các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến, nhằm thúc đẩy sản xuất đồng thời giúp cải thiện môi trường tự nhiên. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tăng cường hệ sinh thái chính là yếu tố giúp cho Trung Quốc giữ ngôi đầu về canh tác nông nghiệp, đáp ứng cả về an ninh lương thực và bền vững môi trường.
Tại châu tự trị Mông Cổ Bayingolin thuộc khu vực Tân Cương (Trung Quốc), những cánh đồng bông bạt ngàn đã trổ mầm, những chiếc lá non mềm mại vươn lên trong làn gió xuân ấm áp. Tuy nhiên, những mầm non này không phải từ cây bông, mà chúng chính là lá của những cây thì là được người nông dân nơi đây canh tác xen kẽ trên cánh đồng bông.
Vào đầu tháng 3, người nông dân Tân Cương sẽ gieo hạt thì là, sớm hơn một tháng so với thời vụ gieo hạt bông. Như vậy, đến cuối tháng 5, đầu tháng 6 khi cây bông mọc lên thì thìa là đã chín và chuẩn bị cho thu hoạch. Công nghệ xen canh này dự kiến sẽ mang lại thu nhập cao hơn, với 500 nhân dân tệ trên mỗi diện tích đất canh tác cho người nông dân.
Ông LA KIẾN HỒNG, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông nghiệp, Quân đoàn Xây dựng và Sản xuất Tân Cương: "Theo giá bông hiện tại, chúng tôi có thể kiếm được 3.000 đến 3.500 nhân dân tệ/mẫu đất trong năm nay, trước đây chúng tôi chỉ kiếm được từ 2.500 đến 3.000 nhân dân tệ. Trong thời kỳ đầu mới phát triển, cây bông còn có thể dùng để chắn gió và cố định cát”.
Công nghệ xen canh giúp tiết kiệm không gian và thời gian này sẽ được áp dụng trên khoảng 2.680ha diện tích đất trồng bông trong năm nay, dự kiến sẽ mang lại thu nhập thêm 20 triệu nhân dân tệ cho nông dân.
Ông VƯƠNG TRÍ HOA, nông dân: “Chúng tôi rất vui khi kiếm được nhiều tiền hơn từ cùng một diện tích đất trồng”.
Hiện tại, Tân Cương đã hình thành một hệ thống công nghiệp bông, kết hợp giữa sản xuất, dịch vụ, lưu thông, chế biến và bán hàng. Năm 2021, tổng sản lượng bông ở Tân Cương đạt 5,129 triệu tấn, chiếm 89,5% của cả nước. Tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu thu hoạch đạt trên 80%.
Ngoài ra, Tân Cương cũng định hướng phát triển nền nông nghiệp tuần hoàn, kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi và phân phối, giúp nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Khu trang trại này là nơi chăn nuôi hơn 50.000 con cừu và hơn 1.000 gia súc khác. Phân từ gia súc, cừu và các vật nuôi khác được chế biến thành phân bón nông nghiệp thông qua một dây chuyền tự động hóa, từ đó cung cấp cho các cánh đồng nho lân cận. Thân và lá của cây nho lại được quay ngược trở lại làm thức ăn cho cừu.
Các nguồn lực được tối đa hóa bằng cách xoay vòng, nền nông nghiệp tuần hoàn vì vậy có thể giúp tiết kiệm chi phí sản xuất và tăng nguồn cung thức ăn cho gia súc. Bằng cách biến chất thải động vật thành nguyên liệu hữu ích, nông nghiệp tuần hoàn cũng việc giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường.
Ông HÙNG BÂN, Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y Tân Cương: “Đến cuối năm 2025, chúng tôi sẽ hình thành nên cụm công nghiệp chăn nuôi tại địa phương với giá trị sản lượng hàng năm trên 10 tỷ nhân dân tệ (khoảng 1,57 tỷ USD) bao gồm ngành công nghiệp sản xuất sữa ở sườn phía Bắc dãy núi Thiên Sơn, ngành chăn nuôi gia cầm đặc biệt ở phía Nam Tân Cương, cũng như ngành công nghiệp thịt bò và thịt cừu hữu cơ, ngành chăn nuôi ngựa với các sản phẩm đa dạng ở phía Bắc Tân Cương.”
Năm 2021, gia trị sản phẩm ngành chăn nuôi tại Tân Cương đạt gần 20 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Với nỗ lực ứng dụng công nghệ mới, ngành nông nghiệp tại địa phương này được kỳ vọng sẽ lập nhiều kỷ lục mới trong thời gian tới.
Thực tế sản xuất tại nước ta và kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, nông nghiệp sinh thái được coi như nền nông nghiệp có khả năng tăng năng suất bền vững, chống chịu và thích ứng tốt với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, đảm bảo an ninh lương thực và các mục tiêu phát triển.
Vậy chiến lược phát triển nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp sinh thái ở nước ta sẽ được triển khai như thế nào?
Phát triển “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” là tư duy mới về quản lý và phát triển “tam nông” của Đại hội Đảng lần thứ XIII. Đây cũng là xuất phát điểm cho nhìn nhận, đổi mới tư duy và cơ cấu lại phương thức quản lý và phát triển các vấn đề “tam nông” trong thời kỳ mới. Để chuyển đổi căn bản từ quan niệm “tam nông” truyền thống sang tư duy phát triển “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh” thì đột phá phải bắt đầu từ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị gắn với phát huy dân chủ ở nông thôn. Đây cũng chính là nội dung được đặc biệt quan tâm tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII này.
CHÂU ÂU ĐỀ XUẤT NÔNG NGHIỆP CARBON THẤP
Bộ trưởng Nông nghiệp các quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu (EU) đã tán thành các kết luận về nông nghiệp carbon thấp do Ủy ban Châu Âu đề xuất.
Đề xuất do Ủy ban Châu Âu xây dựng với tựa đề “Các chu trình carbon bền vững” nhằm khuyến khích các hoạt động canh tác góp phần thu CO2 từ khí quyển và lưu giữ trong đất hoặc sinh khối một cách bền vững. Những hoạt động này có thể bao gồm trồng hàng rào cây, trồng xen canh, nông nghiệp bảo tồn, duy trì các vùng đất than bùn. Trong lâm nghiệp là trồng rừng hoặc tái sinh rừng.
Hội đồng Châu Âu hoan nghênh việc trao đổi thông tin vào công nhận vai trò then chốt của các ngành nông nghiệp và lâm nghiệp trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu bằng cách hấp thụ carbon thấp từ khí quyển. Các bộ trưởng nông nghiệp EU cho rằng, bên cạnh chính sách nông nghiệp chung, cần cung cấp hỗ trợ tài chính từ nguồn lực công và tư, nhằm khuyến khích những người làm nông nghiệp và lâm nghiệp áp dụng các hoạt động thận thiện với khí hậu.
NAM PHI THÍ ĐIỂM “THƯỞNG” TÍN CHỈ CARBON CHO NÔNG DÂN CANH TÁC BỀN VỮNG
Trong những năm gần đây, phát triển bền vững nông nghiệp trong điều kiện dân số lớn đang từng bước được chú trọng bởi các quốc gia trên thế giới, và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Chính phủ Nam Phi đang triển khai thí điểm chương trình AgriCarbon – chương trình giảm thiểu carbon được chứng nhận quốc tế đầu tiên của Nam Phi dành cho nông nghiệp. Tham gia chương trình, những người nông dân sẽ được thưởng tín chỉ carbon cho các các hoạt động canh tác, nuôi trồng bền vững của họ.
Các trang trại chăn nuôi bò sữa từ lâu đã chịu nhiều chỉ trích, bởi hoạt động sản xuất nơi đây thải ra một lượng lớn khí mêtan và nitơ gây biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, tại trang trại bò sữa Lancewood ở Nam Phi, không khó để bắt gặp hình ảnh chiếc máy kéo được định vị bởi GPS đang rải phân ở những khu vực đã được xác định trước, giúp giảm thiểu lượng phân bón sử dụng xuống mức thấp nhất có thể. Lancewood là 1 trong số 40 trang trại bò sữa tham gia chương trình AgriCarbon của Nam Phi, giúp hạn chế phát thải nhà kính trong ngành nông nghiệp. Kể từ khi tham gia chương trình vào năm 2018, trang trại đã giảm hơn một nửa lượng nitơ sử dụng trên mỗi hecta diện tích.
Ông MARK RUBIN, chủ trang trại Lancewood, Nam Phi: “Chúng tôi đã giảm lượng nitơ trên đất trong nhiều năm. Đó cũng là cách chúng tôi giảm chi phí vận hành trang trại, do đó việc kinh doanh các sản phẩm từ sữa mang lại nhiều lợi nhuận”.
Những con bò tại Lancewood được cung cấp khẩu phần ăn từ những loại cây có chọn lọc, từ rau diếp xoăn đến cỏ linh lăng. Những cây trồng này không chỉ cung cấp thức ăn cho gia sức mà còn góp phần bảo tồn chất dinh dưỡng của đất.
Ông MARK RUBIN, chủ trang trại Lancewood, Nam Phi: “Chúng tôi luôn tin rằng đất vô cùng quan trọng. Bạn càng hòa hợp với thiên nhiên thì bạn sẽ càng thu được nhiều lợi hơn từ đó”.
Ngoài ra, chăn thả luân phiên, giảm thiểu hoạt động đào xới đất, giảm thiểu phân bón cũng là những cách thức mà người nông dân có thể áp dụng để nâng cao tính bền vững của họ trong chăn nuôi và thu thập thêm tín chỉ carbon.
Ông GREY MAGUIRE, Giám đốc dự án carbon tại Nam Phi: “Lý do tại sao những khoản tín chỉ này thực sự quan trọng là bởi trên thế giới hiện nay, các doanh nghiệp đang hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Có nghĩa là các công ty trên khắp thế giới đang cố gắng xác định cách thức mà họ có thể quản lý lượng khí thải từ các hoạt động của riêng họ và cả từ chuỗi cung ứng."
Hiện nay, một chương trình tín chỉ carbon tương tự như AgriCarbon cũng đang được lên kế hoạch triển khai cho khoảng 33 triệu nông dân trồng trọt và chăn nuôi quy mô nhỏ ở Châu Phi, với các dự án tiềm năng được chú ý ở Malawi, Morocco, Kenya và Zambia.